VNUHCM Journal of

Economics - Law and Management

An official journal of Viet Nam National University Ho Chi Minh City, Viet Nam

ISSN 2588-1051

Skip to main content Skip to main navigation menu Skip to site footer

 Research article

HTML

85

Total

39

Share

Assessing Vietnam's green export potential to the European Union (EU) market






 Open Access

Downloads

Download data is not yet available.

Abstract

The European Union (EU) is one of Vietnam's leading export partners. However, the EU's implementation of the European Green Deal (EGD) has posed significant challenges for many of Vietnam's key export products entering this market. Therefore, this study focuses on assessing Vietnam's green export potential to the EU market by utilizing trade indicators to classify Vietnam’s export sectors based on their      itive advantage and specialization level. The      study      employs a Markov transition matrix to predict the trend of export market share shifts between EU countries with increasing and decreasing imports from Vietnam. The research findings indicate that Vietnam’s major export sectors need to innovate and adopt sustainable practices to      maintain and expand access to the EU market and      increase export value to this market in response to the challenges of meeting the EGD’s stringent environmental standards shortly     . To achieve this, relevant export sectors in Vietnam must implement a comprehensive strategy that focuses on      raising awareness and enhancing production capacity, while also requiring strong support from the government and related organizations to effectively and sustainably adapt to the EGD.

Giới thiệu

Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng trong giai đoạn 2010 - 2024 từ mức 72,24 tỷ USD lên 405,53 tỷ USD, đạt mức tăng trung bình 4,6% mỗi năm 1 . Trong đó, Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của EU trong khối ASEAN và đứng thứ 17 trong số các nước cung ứng hàng hóa lớn nhất vào EU năm 2022 2 . Kết thúc năm 2024, Việt Nam đã xuất khẩu 51,66 tỷ USD sang EU, chiếm 12,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước 1 .

Tuy nhiên, xuất khẩu của Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức khi các đối tác, đặc biệt là EU, ngày càng siết chặt các “quy định xanh” đối với hàng nhập khẩu 3 . Không chỉ vậy, Việt Nam còn chịu áp lực cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia đối thủ trong khu vực, nơi các chính sách xanh đã và đang được triển khai một cách mạnh mẽ . Indonesia, chẳng hạn, đã xây dựng Danh mục phân loại xanh (Green Taxonomy) để thúc đẩy kinh tế xanh và bền vững, trong khi Thái Lan đã áp dụng Mô hình kinh tế Sinh học - Tuần hoàn - Xanh (Bio-Circular-Green Economic Model - BCG) nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu 4 , 5 . Ở chiều ngược lại, mặc dù Chính phủ Việt Nam đã bắt đầu vạch ra các chiến lược tăng trưởng xanh thông qua Quyết định số 1393/QĐ-TTg và Quyết định số 1658/QĐ-TTg, hệ thống pháp luật và khung chính sách hiện hành vẫn chưa đầy đủ để hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi xanh, khiến họ đối mặt với nhiều thách thức trong việc thích nghi và cạnh tranh trên thị trường quốc tế 6 , 7 . Do đó, Việt Nam cần nhanh chóng củng cố hành lang pháp lý về xuất khẩu xanh để đảm bảo nguồn cung sản phẩm có thể đáp ứng các quy định khắt khe về kỹ thuật và môi trường của thị trường quan trọng nhưng “khó tính” này.

Khung phân tích và lược khảo nghiên cứu

EGD được Liên minh Châu Âu (EU) thông qua vào năm 2020, là chiến lược phát triển bền vững của Ủy ban Châu Âu, đặt mục tiêu đưa EU trở thành khu vực trung hòa carbon vào năm 2050 thông qua loạt sáng kiến chính sách toàn diện. EGD cung cấp lộ trình rõ ràng với những hành động thiết thực, hướng đến việc chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn sạch, giảm phát thải khí nhà kính, khôi phục đa dạng sinh học và giảm ô nhiễm 8 .

Trong bối cảnh thương mại quốc tế ngày càng chú trọng đến các yếu tố xanh, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm phân tích vai trò của chính sách môi trường và đổi mới sáng tạo trong thúc đẩy xuất khẩu xanh. Valeria Costantini & Massimiliano Mazzanti đã chỉ ra rằng các chính sách môi trường và nỗ lực đổi mới sáng tạo đóng vai trò quan trọng trong cải thiện hiệu quả sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu xanh trong các ngành công nghiệp sản xuất của EU 9 . Tại khu vực châu Á, nghiên cứu của He & Cai đã sử dụng mô hình PSM-DID để phân tích tác động của các quy trình công nghệ tiên tiến đến giảm phát thải khí nhà kính, nhấn mạnh vai trò của đổi mới sáng tạo trong nâng cao hiệu suất xuất khẩu xanh tại Trung Quốc 10 . Trong khi đó, nghiên cứu của Chishty & Sayari tại Ấn Độ đã cho thấy mối quan hệ tích cực giữa tính bền vững môi trường và hiệu suất xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành sản xuất da 11 . Hàn Quốc là quốc gia duy nhất cho đến nay coi tăng trưởng xanh như một chiến lược phát triển trên quy mô toàn quốc, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của quốc gia Đông Á này trên thị trường quốc tế, đồng thời thúc đẩy xuất khẩu xanh 12 . Riêng Malaysia đã thực hiện những bước quan trọng nhằm giảm lượng khí thải CO 2 bằng cách áp dụng công nghệ xanh 13 . Ngoài ra, nghiên cứu của Vuola & cộng sự cho thấy Lào cũng đã tập trung vào phát triển thủy điện quy mô lớn nhằm thúc đẩy kinh tế nhưng lại đang phải đối mặt với rủi ro quản lý nguồn tài nguyên một cách hiệu quả 14 . Trong khi đó, Campuchia đang có xu hướng đa dạng hóa nguồn năng lượng và hướng tới kinh tế xanh, song gặp khó khăn trong việc thực thi và giám sát các chính sách bền vững 14 .

Đứng trước xu thế đó, nhiều công trình nghiên cứu đã đi sâu vào thực trạng xuất khẩu xanh của Việt Nam và thu được những kết quả đáng chú ý. Nghiên cứu của Le sử dụng mô hình SWOT để phân tích cơ hội và thách thức của Việt Nam khi áp dụng EGD, so sánh kim ngạch xuất khẩu trước và sau khi EGD có hiệu lực, và nhấn mạnh lợi ích của việc thích ứng sớm 8 . Ngoài ra, một số nghiên cứu định tính về rào cản xanh trong xuất khẩu của Việt Nam đã phân tích cơ hội, thách thức đối với lĩnh vực thủy sản, nông sản, thép khi tuân thủ các tiêu chuẩn về phát thải carbon và môi trường, qua đó nhấn mạnh việc xanh hóa sản phẩm, cải tiến công nghệ và đề xuất giải pháp vượt qua các rào cản đó 15 , 16 , 17 . Về mặt định lượng, mô hình PLS-SEM đã được một số tác giả sử dụng để phân tích dữ liệu thu thập từ nhà quản lý doanh nghiệp (thủy sản, giày dép, dệt may) của Việt Nam song song với việc đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược xuất khẩu xanh cũng như quy định, lợi thế cạnh tranh và hiệu suất tài chính, đồng thời đề xuất các hàm ý chính sách 18 , 19 , 20 .

Như vậy, có thể thấy rằng “xuất khẩu xanh” là một khái niệm chưa được sử dụng một cách rộng rãi, và chỉ xuất hiện khá phổ biến từ những năm 2020 khi mà EGD được ban hành. Mặc dù có nhiều công trình đã được thực hiện về chủ đề này, tuy nhiên phần lớn các nghiên cứu đang dừng lại ở việc tập trung vào các khía cạnh chính sách hoặc chuyển đổi kinh tế tổng thể mà chưa đi sâu vào việc phân tích định lượng và chuyên sâu theo từng ngành hàng. Từ thực tế đó, chủ đề về “Đánh giá tiềm năng xuất khẩu xanh của Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu (EU)” cần thiết được xem xét nhằm hệ thống hóa, đổi mới phương pháp luận, cung cấp cơ sở dữ liệu hữu ích và định hướng chiến lược cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở giúp cho các doanh nghiệp trong các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nâng cao giá trị sản phẩm thông qua các “tiêu chuẩn xanh” nhằm thúc đẩy tăng trưởng thương mại quốc tế nói chung và nâng cao kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Liên minh Châu Âu (EU) nói riêng.

Phương pháp nghiên cứu và nguồn dữ liệu

Phương pháp nghiên cứu định tính

Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu, bài báo sử dụng một cách linh hoạt nhiều phương pháp nghiên cứu định tính khác nhau. Theo đó, phương pháp tổng hợp được sử dụng để thu thập và thống kê dữ liệu từ các nguồn đáng tin cậy như Tổng cục thống kê, Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC), cũng như các báo cáo thường niên và các nghiên cứu trước đó. Song song với đó, phương pháp phân loại và hệ thống hóa được triển khai để sắp xếp tài liệu liên quan thành các chủ đề nhất quán về xuất khẩu, xuất khẩu xanh và tiềm năng xuất khẩu, tạo nền tảng vững chắc cho nghiên cứu. Đồng thời, phương pháp phân tích và tổng hợp cũng được sử dụng để có thể nắm bắt toàn diện các tài liệu tham khảo, từ đó đưa ra kết luận có ý nghĩa. Cuối cùng, phương pháp so sánh được áp dụng nhằm phân tích dữ liệu theo dòng thời gian, kết hợp với phương pháp định lượng “Products mapping” để xác định các ngành hàng có lợi thế cạnh tranh nhất của Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu định lượng

Bên cạnh các phương pháp nghiên cứu định tính truyền thống, bài nghiên cứu được thực hiện theo hai giai đoạn. Cụ thể như sau:

Giai đoạn 1: Lựa chọn ngành hàng/sản phẩm xuất khẩu chủ lực theo phương pháp “Products Mapping”.

Giai đoạn này được thực hiện dựa trên dữ liệu xuất - nhập khẩu của Việt Nam và thế giới từ hệ thống Trademap của ITC trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2023. Dữ liệu này được sử dụng để tính toán các chỉ số thương mại, giúp xác định ngành hàng nào có tiềm năng xuất khẩu vượt trội.

Đầu tiên, chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu (RCA) của Balassa được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của từng ngành hàng, giúp xác định mức độ lợi thế so sánh của một sản phẩm dựa trên tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam so với toàn thế giới. Công thức tính chỉ số RCA được trình bày như sau:

Trong đó: X ij , X wj lần lượt là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của nước i và của toàn thế giới; X i , X w lần lượt là tổng kim ngạch xuất khẩu của nước i và của toàn thế giới. Nếu RCA lớn hơn 1, ngành đó có lợi thế so sánh; đặc biệt, nếu RCA từ 4 trở lên, ngành này có lợi thế so sánh cao 21 .

Tuy nhiên, RCA có tính bất đối xứng nên chỉ số lợi thế so sánh đối xứng (RSCA) đã được Dalum và Laursen phát triển nhằm điều chỉnh RCA, tạo ra sự phân phối đối xứng hơn 22 . Chỉ số này được xây dựng theo công thức: Với giá trị dao động từ -1 đến +1, nếu RSCA dương (lớn hơn 0), ngành hàng có lợi thế so sánh, và ngược lại 22 .

Tiếp theo, chỉ số cán cân thương mại (TBI) do Lafay phát triển được sử dụng để xác định một quốc gia là nước xuất khẩu ròng hay nhập khẩu ròng đối với từng sản phẩm. Với công thức , trong đó: x ij là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của nước i; và m ij là kim ngạch nhập khẩu sản phẩm j của nước i, TBI dao động từ -1 đến +1. Giá trị dương biểu thị quốc gia là nước xuất khẩu ròng và giá trị âm biểu thị quốc gia là nước nhập khẩu ròng 23 .

Dựa trên hai chỉ số RSCA và TBI, phương pháp “Products Mapping” của Widodo được sử dụng để phân loại các ngành hàng thành bốn nhóm: (A) ngành có lợi thế so sánh và chuyên xuất khẩu (RSCA > 0, TBI > 0); (B) ngành có lợi thế so sánh nhưng chuyên nhập khẩu (RSCA > 0, TBI < 0); (C) ngành không có lợi thế so sánh nhưng chuyên xuất khẩu (RSCA < 0, TBI > 0); (D) ngành không có lợi thế so sánh và chuyên nhập khẩu (RSCA < 0, TBI < 0) 24 .

Cuối cùng, các ngành hàng thuộc nhóm A sẽ được tập trung phân tích, so sánh, sắp xếp theo thứ tự để xác định các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Phương pháp này đảm bảo lựa chọn được các ngành hàng vừa có lợi thế so sánh vừa có năng lực xuất khẩu bền vững, giúp tối ưu hóa chiến lược phát triển thương mại quốc tế của Việt Nam 24 .

Giai đoạn 2: Dùng ma trận chuyển đổi Markov dự đoán cơ cấu thị trường nhập khẩu tăng/giảm trong tương lai của các quốc gia EU.

Sau khi đã xác định và sắp xếp các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, giai đoạn 2 tập trung vào việc dự đoán xu hướng thay đổi thị trường nhập khẩu tại 27 quốc gia EU. Dữ liệu xuất khẩu từ Việt Nam sang các nước này được thu thập từ ITC và Tổng cục Thống kê Việt Nam trong hai giai đoạn 2001 - 2010 và 2011 – 2020 sẽ được sử dụng, tạo nền tảng cho việc xây dựng Ma trận chuyển đổi Markov.

Theo Andrey Andreyevich Markov, ma trận Markov là ma trận dự đoán xu hướng chuyển dịch thị phần xuất khẩu dựa trên trạng thái hiện tại và khả năng chuyển dịch sang trạng thái tương lai, bao gồm 2 yếu tố chính: ma trận chuyển đổi trạng thái và vectơ trạng thái ban đầu 25 .

Mỗi phần tử của ma trận, ký hiệu là p ij thể hiện xác suất chuyển từ trạng thái i sang trạng thái j ở kỳ tiếp theo. Ví dụ: p 12 là xác suất thị trường chuyển từ trạng thái 1 (tăng nhập khẩu) sang trạng thái 2 (giảm nhập khẩu). Ma trận xác suất chuyển đổi được biểu diễn như sau:

Bằng cách theo dõi đồ thị trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang 27 quốc gia EU theo thời gian, nghiên cứu xác định 3 trạng thái đại diện cho từng xu hướng của chuỗi dữ liệu: (I) thị trường có xu hướng tăng nhập khẩu từ Việt Nam; (II) thị trường có xu hướng giảm nhập khẩu từ Việt Nam; và (III) thị trường không có xu hướng cụ thể.

Bên cạnh ma trận xác suất, vectơ trạng thái ban đầu, ký hiệu π(i), là vectơ trạng thái ban đầu cho thời kỳ i. Vectơ này có dạng π(i) = (π 1 π 2 π 3 ...π n ), trong đó n là số trạng thái và π j là xác suất của mỗi trạng thái j (j=1,2...n).

Dựa trên vectơ trạng thái ban đầu và ma trận xác suất chuyển đổi, nghiên cứu tiến hành dự đoán trạng thái trong tương lai theo công thức: π(n+1)=π(n)P. Công thức này sẽ giúp xác định xác suất thị trường sẽ thuộc trạng thái nào trong kỳ tiếp theo 25 .

Kết quả nghiên cứu

Kết quả tính toán chỉ số RCA trong giai đoạn 2014 – 2023 cho thấy 10 ngành xuất khẩu hàng đầu thể hiện lợi thế cạnh tranh nổi bật trong cơ cấu thương mại của Việt Nam. Dựa trên kết quả của Product mapping, một nhóm các ngành có lợi thế cạnh tranh rõ rệt và mức độ chuyên môn hóa xuất khẩu cao (Nhóm A) đã được xác định, bao gồm các ngành hàng có mã HS thuộc nhóm 03, 08, 09, 11, 16, 46, 61, 62, 64, và 65 ( Table 1 ).

Table 1 RCA trung bình trong giai đoạn 2014 - 2023 của tốp 10 ngành hàng

Kết quả áp dụng Ma trận chuyển đổi Markov trên 10 ngành hàng vừa liệt kê ở Table 1 cho thấy HS 61 và HS 64 là 2 ngành hàng có chỉ số RSCA, TBI tích cực và có kết quả dự đoán tương lai tích cực nhất ( Table 2 ).

Table 2 Kết quả ma trận chuyển đổi Markov của mã HS 61 và HS 64

Đối với mã HS 61, tại giai đoạn 2021 - 2030, các nước chuyển sang xu hướng tăng sản lượng nhập khẩu tăng lên 69,73% và giảm tỷ lệ của các thị trường có xu hướng giảm và không xác định. Về xa hơn, trong giai đoạn 2031 - 2040, tỷ lệ thị trường có xu hướng tăng nhập khẩu sản phẩm mặt hàng HS 61 tăng lên 74,39%, cho thấy một tín hiệu hết sức tích cực đối với ngành vải may mặc và phụ kiện quần áo, dệt kim hoặc móc của Việt Nam.

Đối với mã HS 64, tại giai đoạn 2021 - 2030 thì đã có nhiều hơn các nước chuyển sang xu hướng giảm sản lượng nhập khẩu, tuy nhiên vẫn có đến 63,15% thị trường có xu hướng tăng sử dụng sản phẩm từ Việt Nam. Đến giai đoạn 2031 - 2040, các thị trường này chuyển sang tăng trưởng một cách không ổn định, khó xác định xu hướng.

Thảo luận kết quả nghiên cứu và một số gợi ý chính sách

Figure 1 . Trị giá xuất khẩu ngành hàng HS 61 của Việt Namsang các quốc gia EU giai đoạn 2000 - 2022 (ĐVT: triệu USD)

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Figure 2 . Trị giá xuất khẩu ngành hàng HS 64 của Việt Nam sang các quốc gia EU giai đoạn 2000- 2022 (ĐVT: triệu USD)

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Ngành vải may mặc và phụ kiện quần áo, dệt kim hoặc móc (HS 61) là một trong các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với chỉ số lợi thế so sánh trung bình là 4,2611. Kim ngạch xuất khẩu của nhóm sản phẩm này sang EU tăng trưởng ổn định, đạt trung bình 647,8 triệu USD mỗi năm trong suốt hai thập kỷ từ 2000 đến 2023, và duy trì trên mức 1 tỷ USD mỗi năm kể từ năm 2018 ( Figure 1 ). Năm 2021 đánh dấu một mốc tăng trưởng mạnh mẽ của nhóm hàng thuộc mã HS 61, khi giá trị xuất khẩu đạt mốc 1,78 tỷ USD. Tuy nhiên ngành dệt may Việt Nam đang chịu áp lực lớn từ các quy định môi trường ngày càng khắt khe của EU, bao gồm Kế hoạch Hành động Kinh tế Tuần hoàn, Chiến lược Dệt may Bền vững và Tuần hoàn và Quy định Thiết kế Sinh thái cho Sản phẩm Bền vững 3 . Những chính sách này yêu cầu sản phẩm phải đạt yêu cầu bền vững, có thể tái chế, không chứa hóa chất độc hại và được giám sát thông qua hộ chiếu kỹ thuật số 3 . Trong nước, Việt Nam đã ban hành Thông tư 02/2022/TT-BTNMT về tiêu chí nhãn sinh thái Việt Nam và Quyết định số 889/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Hành động Quốc gia về Sản xuất và Tiêu dùng Bền vững giai đoạn 2021 – 2030 26 , 27 . Những chính sách này định hướng doanh nghiệp dệt may hướng tới mô hình kinh tế tuần hoàn, giảm thiểu tác động môi trường và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiện nay, doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang chuyển đổi thông qua đầu tư vào năng lượng tái tạo, quy trình sản xuất xanh và chứng nhận bền vững. Statista dự báo rằng thị trường dệt may của Việt Nam sẽ chạm mốc xấp xỉ 7 tỷ USD vào năm 2025, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm (CAGR) đạt mức 3,54% trong giai đoạn 2025 – 2029 28 . Dự báo này tạo động lực để các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nâng cao giá trị gia tăng, mở rộng thị phần xuất khẩu, thích ứng sớm với tiêu chuẩn xanh đáp ứng yêu cầu EU, đồng thời nâng cao vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ngành giày dép (HS 64) cũng đã trở thành một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đạt chỉ số lợi thế so sánh trung bình cao nhất, lên đến mức 8,9817 trong giai đoạn 2014-2023. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu trung bình sang EU đạt 2,5 tỷ USD mỗi năm, tăng trưởng bền vững với tốc độ tăng trưởng trung bình 12% mỗi năm trong giai đoạn này ( Figure 2 ). Năm 2022 là năm ghi nhận kỷ lục của kim ngạch xuất khẩu sản phẩm giày dép của Việt Nam vào EU, khi giá trị xuất khẩu vượt qua mức 6 tỷ USD nhờ vào tác động tích cực từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và sự cải thiện năng lực của chính bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam ( Figure 2 ). Mặc dù tỷ lệ nhập khẩu từ Việt Nam vào EU không thay đổi trong suốt hai mươi năm qua, nhưng sự phụ thuộc cao vào nguyên liệu nhập khẩu lên đến 70% trong cấu trúc giá trị sản phẩm đang cản trở sự phát triển của ngành giày dép Việt Nam 29 . Thêm vào đó, các chính sách môi trường của EU, như EGD và chương trình Trách nhiệm Mở rộng của Nhà sản xuất (EPR) đặt ra yêu cầu cao hơn đối với các doanh nghiệp về công nghệ sản xuất xanh, khả năng truy xuất nguồn gốc và tái chế 3 . Dù hạ tầng tái chế trong nước còn hạn chế, việc Việt Nam nội luật hóa chương trình Trách nhiệm Mở rộng của Nhà sản xuất (EPR) thông qua Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 và Nghị định 08/2022/NĐ-CP đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước chủ động thích ứng, chuyển đổi sang mô hình sản xuất tuần hoàn và ứng dụng vật liệu thân thiện với môi trường nhằm đáp ứng yêu cầu của EU 30 . Theo báo cáo của Research and Markets, sản xuất và xuất khẩu giày dép của Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng trong giai đoạn 2022 – 2031. Theo đó, giá trị thị trường của nhóm sản phẩm này sẽ đạt mốc 38,7 tỷ USD vào năm 20231 với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm (CAGR) ở mức 8,1% 31 .

Kết luận

Các kết quả đã cho thấy rằng ngành hàng mã HS 61 và HS 64 có sự thay đổi không đáng kể về xu hướng tăng nhập khẩu từ Việt Nam của các quốc gia EU, nếu vẫn giữ nguyên tốc độ phát triển hiện tại thì sẽ không khai thác được hết tiềm năng của hai ngành hàng này. Vì thế, trong tương lai gần, doanh nghiệp cần tăng cường đào tạo chuyên sâu về EGD thông qua các chương trình phù hợp với từng ngành hàng và đầu tư vào công nghệ sản xuất bền vững. Bên cạnh đó, Chính phủ cần đề xuất các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng xanh, và hỗ trợ chứng nhận tiêu chuẩn môi trường nhằm thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi bền vững.

Mặc dù nghiên cứu đã sử dụng cả công cụ định lượng và định tính để phân tích tiềm năng xuất khẩu xanh của Việt Nam sang EU, tuy nhiên vẫn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục. Cụ thể, nghiên cứu chưa thể tích hợp các sự kiện bất thường vào mô hình phân tích, chẳng hạn như những thay đổi đột ngột trong chính sách thương mại hoặc biến động địa chính trị, dẫn đến những hạn chế trong việc đưa ra dự báo chính xác cho tương lai. Bên cạnh đó, hệ thống quản lý và giám sát xuất khẩu xanh tại Việt Nam còn chưa hoàn thiện, gây ra sự thiếu hụt dữ liệu, từ đó ảnh hưởng đến tính toàn diện và độ tin cậy của cơ sở dữ liệu phục vụ nghiên cứu.

Trong tương lai, nghiên cứu có thể được mở rộng theo các hướng khác. Đối với doanh nghiệp, cần chủ động cập nhật dữ liệu từ nguồn chính thống, ứng dụng AI và Big Data để phân tích xu hướng; đồng thời hợp tác với hiệp hội ngành hàng để minh bạch dữ liệu, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu xanh. Đối với Chính phủ, nên xây dựng cơ sở dữ liệu từ cấp trung ương đến địa phương và có hệ thống giám sát xuất khẩu xanh. Ngoài ra, nhà nước cần hỗ trợ đào tạo về phân tích dữ liệu và quản trị rủi ro thương mại, cũng như khuyến khích doanh nghiệp sử dụng các công cụ dự báo hiện đại.

Danh mục các từ viết tắt

ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

EPR: Chương trình Trách nhiệm Mở rộng của Nhà sản xuất

EU: Liên minh châu Âu

EVFTA: Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam

EGD: Thỏa thuận Xanh châu Âu

RCA: Chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu

RSCA: Chỉ số lợi thế so sánh đối xứng

TBI: Chỉ số cân bằng thương mại

ITC: Trung tâm Thương mại Quốc tế

Xung đột lợi ích

Nhóm tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột lợi ích nào trong công bố bài báo.

Đóng góp của các tác giả

Tác giả chính Nguyễn Thị Diệu Hiền chịu trách nhiệm điều phối tổng thể công việc của các thành viên, tổng hợp và rà soát toàn bộ các nội dung của bài báo;

Tác giả Võ Ngọc Trân Châu chịu trách nhiệm xây dựng khung phân tích cho nghiên cứu và xác định phương pháp định lượng, bao gồm việc ứng dụng các chỉ số RCA, TBI, GEI;

Tác giả Trần Thị Lan Linh chịu trách nhiệm phân tích các rào cản từ Thỏa thuận Xanh Châu Âu (EGD) và ứng dụng mô hình Markov trong đánh giá khả năng chuyển đổi sang xuất khẩu xanh;

Tác giả Trần Kim Ngân chịu trách nhiệm đánh giá kinh nghiệm quốc tế trong xuất khẩu xanh và thực trạng phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam, đồng thời phụ trách hoàn thiện các yêu cầu về hình thức trình bày, định dạng bảng biểu, trích dẫn và phụ lục của bài báo;

Tác giả Trần Kim Phượng cùng phối hợp phụ trách các nội dung liên quan đến thực trạng và tiềm năng xuất khẩu xanh, đồng thời tham gia biên soạn phần thông tin về các tiêu chuẩn xanh của EU;

Tác giả Phan Thị Hà Vy chịu trách nhiệm nội dung liên quan đến thực trạng và tiềm năng xuất khẩu xanh, cũng như các tiêu chuẩn xanh tại thị trường Liên minh Châu Âu (EU).

References

  1. Tổng cục Thống kê. Bức tranh xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2024 - Phục hồi, phát triển và những kỷ lục mới [Online] [truy cập ngày 14/12/2024]. . 2024;:. Google Scholar
  2. Eurostat EU trade relations with Vietnam. Facts, figures and latest developments [Online] [truy cập ngày 14/12/2024]. . 2022;:. Google Scholar
  3. Trang Nguyễn Thị Thu, Thu Trần Minh, Dung Nguyễn Thị Thùy, Trà Nguyễn Thanh. Thỏa thuận Xanh EU và xuất khẩu của Việt Nam: Trường hợp của ngành Nông sản, Thực phẩm và Dệt may [Online]. [truy cập ngày 14/11/2024]. . 2024;:. Google Scholar
  4. Lestari A.P., Napitupulu A., Amalia A., Putri A.P., Armanto A.N.. Green Economy Index a Step Forward to Measure the Progress of Low Carbon & Green Economy in Indonesia. Kemnterian PPN/Bappenas. 2022;:. Google Scholar
  5. Cổng Thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Thái Lan áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn cho phát triển du lịch bền vững [Online]. [truy cập ngày 12/12/2024]. . 2023;:. Google Scholar
  6. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyết định số 1393/QĐ-TTg Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, ngày 25/12/2012 (truy cập ngày 14/10/2024). . 2012;:. Google Scholar
  7. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyết định số 1658/QĐ-TTg Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, ngày 1/10/2021 (truy cập ngày 14/10/2024). . 2021;:. Google Scholar
  8. Tuyet LTA. EU Green Deal, Opportunities and Challenges for Vietnam’s Exports to the EU Market. Journal of Management and Economic Studies. 2024;6(2):131-7. Google Scholar
  9. Costantini V., Mazzanti M.. On the green and innovative side of trade competitiveness? The impact of environmental policies and innovation on EU exports. Res Policy. 2012;41(1):132-53. Google Scholar
  10. He L.Y., Cai K.L.. Going Green: Evidence from Product-Level Exports and Firms’ Environmental Performance in China. Sustainability. 2023;15(21):15281. Google Scholar
  11. Chishty S.K., Sayari S.. Does market oriented environmental sustainability determine the export performance? A study of leather products manufacturing SMEs in India. Cogent Business & Management. 2024;11(1):2363427. Google Scholar
  12. Tú Cẩm. Tăng trưởng xanh ở Hàn Quốc [Online] (truy cập ngày 14/12/2024). . 2022;:. Google Scholar
  13. Majekodunmi T.B., Shaari M.S., Abidin N.Z., Ridzuan A.R.. Green technology, exports, and CO2 emissions in Malaysia. Heliyon. 2023;9(8):. Google Scholar
  14. Vuola M., Korkeakoski M., Vähäkari N., Dwyer M.B., Hogarth N.J., Kaivo-Oja J.. What is a Green Economy? Review of National-Level Green Economy Policies in Cambodia and Lao PDR. Sustainability. 2020;12(16):6664. Google Scholar
  15. Khoi N.V., Thuy L.T.T.. Green trade barriers and Vietnam’s agricultural and fishery export. Journal of Globalization Studies. 2014;5(2):69-80. Google Scholar
  16. Hiền Nguyễn Thị Thu. Nhận diện rào cản xanh của EU đối với hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Tạp chí Công Thương. 2023;6(1):78-83. Google Scholar
  17. Thảo Ngô Thị Phương, Quang Vũ Phạm, Quân Đỗ Hồng, Anh Nguyễn Thị Lan. Giải pháp xanh hoá xuất khẩu thép Việt Nam: Thích ứng trước tác động của Cơ chế Điều chỉnh Biên giới Carbon của Liên minh Châu Âu. Tạp chí Kinh tế và Phát triển. 2024;326(2):115-23. Google Scholar
  18. Bình Đỗ Thị. Chiến lược xuất khẩu xanh của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam: Các yếu tố ảnh hưởng, lợi thế cạnh tranh, và hiệu suất tài chính. Tạp chí nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á. 2020;31(7):5-27. Google Scholar
  19. Binh D.. Institutional pressures and the mediating role of supply chain coordination in green export strategy: empirical research in Vietnam footwear industry. International Journal of Business Environment. 2022;13(3):326-44. Google Scholar
  20. Linh Trần Thùy, Bình Đỗ Đức. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển xuất khẩu bền vững hàng dệt may của Việt Nam sang EU. Tạp chí Kinh tế và Phát triển. 2024;322:29-39. Google Scholar
  21. Balassa B.. Trade liberalisation and “revealed” comparative advantage. The Manchester School. 1965;33(2):99-123. Google Scholar
  22. Dalum B., Laursen K., Villumsen G.. Structural Change in OECD Export Specialisation Patterns: Despecialisation and Stickiness. International Review of Applied Economics. 1998;12(3):423-43. Google Scholar
  23. Lafay G.. The measurement of revealed comparative advantages. International trade modelling. 1992;:209-34. Google Scholar
  24. Widodo T.. Comparative Advantage: Theory, Empirical Measures And Case Studies. Review of Economic and Business Studies (REBS). 2009;4:57-82. Google Scholar
  25. Markov A.A.. Extension of the law of large numbers to dependent quantities. Izv Fiz-Matem Obsch Kazan Univ (2nd Ser). 1906;15(1):135-56. Google Scholar
  26. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyết định số 889/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021 - 2030, ngày 24/6/2020 (truy cập ngày 12/12/2024). . 2020;:. Google Scholar
  27. Bộ Tài nguyên và Môi trường. Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, ngày , ngày 10/01/2022 (truy cập ngày 12/12/2024). . 2022;:. Google Scholar
  28. Statista Apparel - Vietnam [Online] (truy cập ngày 12/12/2024). . 2024;:. Google Scholar
  29. Hương Hồng. Xuất khẩu chỉ đứng sau Trung Quốc, mặt hàng này thu về hàng tỷ USD mỗi tháng cho Việt Nam (truy cập ngày 14/11/2024). Tạp chí điện tử Kinh Doanh - VnBusiness [Online]. 2024;:. Google Scholar
  30. Oanh Phạm. Chính sách EPR hoàn thiện đầu tiên ở Đông Nam Á (truy cập ngày 10/12/2024). Cổng Thông tin Quan trắc môi trường [Online]. 2024;:. Google Scholar
  31. Research and Markets. Vietnam Footwear Manufacturing Industry Report 2022: Development Environment, Supply and Demand, Import and Export 2017-2022, Market Competition, Major Brands, Outlook 2021-2031 [Online] (truy cập ngày 14/12/2024). . 2022;:. Google Scholar


Author's Affiliation
Article Details

Issue: Vol 9 No 3 (2025)
Page No.: 6218-6225
Published: Sep 22, 2025
Section: Research article
DOI: https://doi.org/10.32508/stdjelm.v9i3.1570

 Copyright Info

Creative Commons License

Copyright: The Authors. This is an open access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution License CC-BY 4.0., which permits unrestricted use, distribution, and reproduction in any medium, provided the original author and source are credited.

 How to Cite
Nguyen, H., Vo, C., Tran, L., Tran, N., Tran, P., & Phan, V. (2025). Assessing Vietnam’s green export potential to the European Union (EU) market. VNUHCM Journal of Economics - Law and Management, 9(3), 6218-6225. https://doi.org/https://doi.org/10.32508/stdjelm.v9i3.1570

 Cited by



Article level Metrics by Paperbuzz/Impactstory
Article level Metrics by Altmetrics

 Article Statistics
HTML = 85 times
PDF   = 39 times
XML   = 0 times
Total   = 39 times