Abstract
Upon an individual's death, they may leave behind not only assets but also debts. In such cases, the heirs, while entitled to inherit the assets, must also obligated to settle the debts left by the deceased. The Civil Code initially assigns this obligation to the heirs. However, if the estate has not yet been divided, the debts left by the deceased shall be settled by the estate administrator, as agreed upon by the heirs, within the limits of the estate. So, who is the estate administrator? And what is their role in fulfilling the obligations of the deceased's estate? By comparing the estate administrator role in Vietnamese law with those in France and the United States, this paper delves into two key areas: Introducing the estate administrator concept in the laws of Vietnam, France, and the United States; and the role of the estate administrator in fulfilling the obligations of the deceased's estate under French, US, and Vietnamese law, along with lessons for Vietnam. This paper then presents the similarities and differences between Vietnamese law and the laws of these two countries. Combined with an analysis of the shortcomings of the regulations, selectively learning from the experiences of these countries is necessary to improve Vietnam's inheritance law and ensure that debts are settled fairly and efficiently.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trước khi qua đời, một cá nhân nếu có những khoản nợ chưa thanh toán, về nguyên tắc những nghĩa vụ đó không chấm dứt mà được chuyển giao cho người khác thực hiện. Chuyển giao nghĩa vụ dân sự khá phức tạp khi trong quan hệ tồn tại ba bên chủ thể. Việc chuyển giao nghĩa vụ có thể được thực hiện dựa trên thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Khi nói về việc chuyển giao theo quy định của pháp luật, đây là trường hợp mà nghĩa vụ được chuyển giao mà không cần sự đồng ý của các bên liên quan . Như vậy, nếu bên có nghĩa vụ chưa thực hiện xong nghĩa vụ của mình nhưng họ chết trước khi đến hạn, khi đó nghĩa vụ không chấm dứt mà được chuyển giao, người thế nghĩa vụ. Khẳng định này được mổ tả cụ thể tại Điều 614, 615 BLDS năm 2015. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ bên cạnh người thừa kế còn có thể là NQLDS. Vậy NQLDS họ có vai trò và trách nhiệm như thế nào đối với việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại? Từ góc nhìn của pháp luật Hoa Kỳ, Pháp về vai trò của NQLDS, Việt Nam liệu học hỏi được những gì để việc thanh toán nghĩa vụ tài sản của người chết để lại một cách có hiệu quả nhất. Vấn đề này sẽ được tác giả làm rõ trong bài nghiên cứu.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết của tác sử dụng hai phương pháp sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp văn bản quy phạm pháp luật
Phân tích văn bản quy phạm pháp luật là việc làm rõ ý tưởng văn bản, làm cơ sở để hiểu rõ ý định của nhà làm luật, hướng đến việc thực hiện pháp luật đến toàn diện, đầy đủ và tạo ra sự công bằng cho các đối tượng liên quan. Khi phân tích văn bản quy phạm pháp luật cần nhần mạnh các từ cần thiết. Những từ cần thiết bao gồm nhóm các từ cần làm rõ nghĩa, nhóm các từ khóa. Sau khi phân tích, cần tổng hợp những đặc điểm nhỏ, các khía cạnh khác nhau, chỉ ra ưu điểm và hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành, những quy định nào chưa tốt.
Với phương pháp này, được sử dụng để phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật Cộng hòa Pháp. Từ đó, rút ra những ưu, nhược điểm của hai hệ thống pháp luật khi quy định về vấn đề phạm vi thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.
Phương pháp so sánh luật học
Trong nghiên cứu pháp luật, so sánh luật trở nên phổ biến. Phương pháp so sánh nhằm hướng tới mục đích như: so với hệ thống pháp luật khác để hiểu rõ hơn về hệ thống pháp luật của chính mình, tìm hiểu các giải pháp khác nhau mà pháp luật các nước đã có hoặc học cách giải quyết đã có của nước ngoài để giải quyết vấn đề mới phát sinh trong nước, ghi nhận nhu cầu điều chỉnh pháp luật cần được nhận biết, góp phần thu hẹp sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, thúc đẩy sự hài hòa pháp luật trong các vấn đề vượt ra khỏi khuôn khổ quốc gia, thúc đẩy sự giao lưu học thuyết và ý tưởng pháp luật vượt qua các rào cản văn hóa và biên giới quốc gia.
Với phương pháp so sánh luật học được nghiên cứu để làm rõ sự khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật của Pháp. Từ đó đánh giá hiệu quả của các phương án xây dựng pháp luật được đưa ra để tìm phương án tốt nhất bảo vệ quyền lợi cho người thừa kế và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác liên quan đến phạm vi thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Giới thiệu người quản lý di sản trong pháp luật Việt Nam, Pháp và Hoa Kỳ
Quản lý di sản hàm ý rằng khi di sản của người chết chưa phân chia cho người hưởng thừa kế theo phần được hưởng. Trường hợp nhiều người hưởng di sản thừa kế, di sản trong trạng thái tạm thời duy trì. Cũng có những trường hợp mặc dù người lập di chúc phân giao tài sản, nhưng vì những lý do khác nhau, việc phân chia di sản chưa được tiến hành. Do đó, quản lý di sản được đặt ra. Điều 616 BLDS năm 2015 định nghĩa về NQLDS, theo đó, "NQLDS là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra ".
Theo nhà làm luật, di sản cần được quản lý trong thời gian chờ việc giải quyết các vấn đề liên quan đến chuyển giao di sản được ngã ngũ, việc quản lý được thực hiện bởi một nhân vật pháp lý gọi là NQLDS 1 .
Ở Hoa Kỳ, sau khi một cá nhân qua đời, tài sản của người đó sẽ được tập hợp, giải quyết công việc kinh doanh, thanh toán các khoản nợ, nộp các tờ khai thuế cần thiết và tài sản được phân chia theo chỉ đạo của cá nhân đã qua đời (thường được gọi là "người quá cố"). Mô hình này gọi là trust 2 . Các hoạt động này thường sẽ được tiến hành thay mặt cho người quá cố bởi một người có tư cách ủy thác, người thi hành án hay còn gọi là đại diện di sản (Personal representative of estate). Luật Di sản, Quyền hạn và Tín thác Bang New York, Hoa Kỳ (Estates, Powers and Trusts Law), Điều 11, giải thích thuật ngữ người được ủy thác (fiduciary) 3 , có thể là một công ty, hay thể nhân được giao phó trách nhiệm quản lý tài sản (tiền, tài sản, v.v.) của người khác và phải hành động hoàn toàn vì lợi ích tốt nhất của họ, chứ không phải vì lợi ích của bản thân. Luật Ủy thác của Hoa Kỳ (Trust Law in the United States) thì người này có thân phận của người nhận tài sản tín thác (Trustee) 4 : người này là người được giao nhiệm vụ quản lý tài sản vì lợi ích của người thụ hưởng. Như vậy, theo pháp luật Hoa Kỳ, khi mở thừa kế, di sản của người chết đặt dưới thẩm quyền của người quản lý, họ được nhìn nhận như chủ sở hữu đối với di sản 5 . Do đó, việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại sẽ do người quản lý có trách nhiệm thanh toán trong phạm vi di sản. Tuy nhiên, làm được điều này, tài sản của người quản lý phải tách biệt với di sản của người chết 1 .
Luật của Pháp, Nhà nước sẽ là NQLDS trong trường hợp không có người thừa kế (Điều 811 BLDS Pháp) 6 . Trường hợp Nhà nước muốn thừa kế di sản của người chết không có người thừa kế hoặc không có người nhận thì phải yêu cầu Tòa án trao quyền chiếm hữu di sản đó. Với trường hợp có người thừa kế, thì một người thừa kế hoặc nhiều người thừa kế có thể ủy quyền cho một hoặc nhiều cá nhân hoặc pháp nhân thực hiện việc điều hành, quản lý toàn bộ hoặc một phần di sản của mình đã được chỉ định của người đó, trong phạm vi thẩm quyền của người được giao quyền thực hiện di chúc. Người được ủy quyền không được đồng thời là công chứng viên phụ trách xử lý di sản thừa kế (Điều 812 BLDS Pháp) 6 . Như vậy, NQLDSthừa kế có thanh toán nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại hay không phụ thuộc vào phạm vi ủy quyền của người thừa kế.
So với pháp luật Hoa Kỳ, BLDS Pháp về NQLDS , Việt Nam có nét tương đồng, người quản lý được cử ra khi di sản thừa kế chưa chia sẽ do người lập di chúc định đoạt hoặc những người thừa kế ủy quyền cho cá nhân hoặc một pháp nhân không cần thiết phải là người thừa kế. Điểm khác biệt rõ nhất, NQLDS thừa kế theo Pháp được thiết lập trên cơ sở của một hợp đồng ủy quyền được quy định một cách chặt chẽ về thủ tục cũng như thẩm quyền trong phạm vi ủy quyền. Ngoài ra, pháp luật Pháp, trong trường hợp Tòa án sẽ quyết định tư cách NQLDS tạm thời nếu một hoặc nhiều người thừa kế thụ động, không đủ tư cách hoặc vi phạm khi điều hành di sản hoặc giữa những người thừa kế có sự bất đồng quan điểm (Điều 813 BLDS Pháp) 6 . Có thể thấy, Với sự ràng buộc bằng hợp đồng ủy quyền có giá trị về mặt pháp lý, NQLDS thừa kế sẽ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi ủy quyền, trong đó bao gồm thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại.
Vai trò của người quản lý di sản trong việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại theo pháp luật Pháp, Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam
Thứ nhất, thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trên cơ sở người thừa kế thỏa thuận 7 .
Ở đây, có sự không rõ ràng, vì NQLDS và người thừa kế có thể khác nhau. Cần khẳng định rằng NQLDS chỉ thực hiện thay khi di sản chưa được chia mà thôi 7 . Ngoài ra, nếu những người thừa kế thỏa thuận chọn NQLDS thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại thì có cần phải thông báo cho người có quyền đặc biệt là chủ nợ biết hay không? Như vậy rất khó để có cơ sở cho các chủ nợ yêu cầu ai thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho họ. BLDS Pháp, có ưu điểm hơn so với Việt Nam, ở chỗ sự thỏa thuận chọn NQLDS thông qua hợp đồng ủy quyền. Khi đó, xác định rõ ai là người thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ. Nếu trong hợp đồng ủy quyền, phạm vi ủy quyền cho phép người quản lý có nghĩa vụ trả nợ thì họ sẽ là chủ thể chịu trách nhiệm, và ngược lại thì trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuộc về người thừa kế. Còn Hoa Kỳ, quản lý tài sản theo mô hình t rust , di sản đặt dưới quyền của trustee . Vì thế, chủ thể này sẽ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ và thay mặt người ủy thác thực hiện các công việc quản lý khác.
Thứ hai , NQLDS với tư cách chính thức, có trách nhiệm lập một danh mục di sản của người chết và thu hồi tài sản thuộc di sản mà người khác đang chiếm hữu 7 .
Nghĩa vụ này của NQLDS nhằm xác định rõ khối tài sản có của người chết để lại bao nhiêu. Thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trong "phạm vi di sản". Có thể thấy, đây là một trong những vai trò cực kỳ quan trọng của nNQLDS. Nếu có một danh mục di sản, cũng như thu hồi được các tài sản thuộc di sản của người thừa kế, thì đây sẽ là hành lang bảo vệ quyền lợi cho người thừa kế cũng như hạn chế được sự đòi hỏi quá mức từ các chủ nợ, những người có quyền liên quan đến di sản thừa kế.
NQLDS có nghĩa vụ lập danh mục di sản, điều đó có nghĩa rằng, họ là chủ thể có trách nhiệm đối với toàn bộ di sản, họ là người đại diện cho người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế 7 . So với pháp luật Hoa Kỳ, Việt Nam có điểm giống nhau, ở chỗ người quản lý là người đại diện di sản. Theo Bộ luật Chứng thực Thống nhất (The Uniform Probate Code), “người đại diện cá nhân có cùng quyền hạn đối với quyền sở hữu tài sản di sản mà chủ sở hữu tuyệt đối sẽ có”. Mặc dù vậy, NQLDS nắm giữ tài sản của di sản dưới dạng ủy thác vì “lợi ích của các chủ nợ và những người khác quan tâm đến di sản”. Quyền này có thể được thực hiện mà không cần thông báo, điều trần hoặc lệnh của tòa án. NQLDS có quyền truy cập và thẩm quyền đối với tài sản kỹ thuật số của người quá cố trong phạm vi được cung cấp bởi Đạo luật truy cập tài sản kỹ thuật số thống nhất được sửa đổi hoặc theo lệnh của tòa án. Ví dụ: đại diện cá nhân có quyền mua hoặc định đoạt một tài sản và bán, thế chấp hoặc cho thuê bất kỳ bất động sản hoặc tài sản cá nhân nào của di sản đó (Điều 711) 8 .
Tuy nhiên, có thể thấy, so với pháp luật Hoa Kỳ, quản lý di sản được quy định một cách chặt chẽ hơn theo mô hình trust. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam về vai trò của NQLDS , Luật Công chứng không đề cập tới. Về nghĩa vụ lập danh mục di sản được BLDS năm 2015 giao cho người quản lý những các văn bản hướng dẫn không quy định cụ thể lập như thế nào. Nghị định 29/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, Điều 18 chỉ ghi nhận nội dung niêm yết văn bản thỏa thuận phân chia di sản và văn bản khai nhận di sản phải có danh mục di sản thừa kế. Vậy, vấn đề được đặt ra: Bằng cách nào để xác nhận được khối tài sản có và tài sản nợ của người chết? NQLDSnếu không thực hiện nghĩa vụ lập danh mục di sản thì có phải chịu trách nhiệm gì không? Và người quản lý muốn lập danh mục di sản thì bằng cách nào và cần sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước như thế nào?
Thứ ba , liên quan đến thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại được quy định tại Điều 658 BLDS năm 2015. Để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán, hạn chế tranh chấp và đảm bảo quyền lợi cho các nghĩa vụ ưu tiên, cần phải lập danh sách các khoản nợ và chủ nợ. Trách nhiệm này trước hết thuộc về NQLDS .
Có thể thấy, NQLDS thừa trong vai trò thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam quy định còn khá mờ nhạt, chưa được quy định cụ thể. Trên cơ sở phân tích đánh giá về chế độ quản lý tài sản, vai trò của NQLDS.
Kiến nghị
Thứ nhất, nếu những người thừa kế thỏa thuận lựa chọn NQLDS thừa kế. Cần thiết phải quy định rõ hình thức thỏa thuận phải được lập bằng văn bản có công chứng, chứng thực. Đồng thời trong văn bản thỏa thuân, cần quy định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người quản lý trong thời gian quản lý di sản thừa kế. Trường hợp NQLDS quản lý động sản không đăng ký quyền sở hữu thì việc công chứng, chứng thực văn bản thỏa thuận chọn NQLDS vẫn rất cần thiết. Bởi lẽ, việc xác định đúng chủ thể thực hiện nghĩa vụ có ý nghĩa quan trọng với những người có quyền trong quan hệ với người đã chết. Khi đó, người có quyền có thể biết được ai là người kế thừa thực hiện nghĩa vụ đối với với sau khi con nợ của mình đã chết. Từ đó, các chủ thể có quyền họ có cơ sở pháp lý cụ thể để yêu cầu NQLDS thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Cụ thể điều chỉnh khoản 1, Điều 616 BLDS năm 2015 như sau: " 1. NQLDS là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Thỏa thuận phải được xác lập bằng văn bản và được công chứng, chứng thực."
Thứ hai, khi xác định được NQLDS thừa kế. Trách nhiệm lập danh mục di sản thừa kế của người quản lý phải được quy định rõ ràng, phải thấy được sức nặng trong vai trò người quản lý giống như mô hình trust của Hoa Kỳ. Để hỗ trợ NQLDS trong vấn đề lập danh mục di sản và thu hồi tài sản cần có sự can thiệp của các cơ quan tổ chức khác. Nội dung niêm yết có các nội dung cần thiết trong đó có danh mục di sản thừa kế. Để danh mục di sản thừa kế mang tính chính xác nhất, hạn chế các trường hợp sử dụng giấy tờ giả, bỏ sót di sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ. Để làm được điều này, cần có sự hỗ trợ từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc xác minh. Pháp luật cần thiết quy định những chủ thể tham gia vào quá trình lập danh mục di sản như chủ nợ, công chứng viên, NQLDS.
Thứ ba, để đảm bảo thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Cần phải có một danh sách các nghĩa vụ (khoản nợ), các chủ nợ. Cần tách bạch giữa các nghĩa vụ có bảo đảm, không có bảo đảm và có bảo đảm một phần. Những hoạt động này nên ủy quyền cho người đại diện di sản thực hiện. Trên cơ sở đó, đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng cho cả người thừa kế và những người được lợi từ di sản của người chết.
KẾT LUẬN
Qua phân tích, có thể thấy rõ vai trò quan trọng của NQLDS trong việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Bằng cách so sánh pháp luật của Cộng hòa Pháp và Hoa Kỳ, chúng ta nhận thấy, pháp luật mỗi quốc gia có những quy định riêng biệt nhưng đều nhằm đảm bảo sự công bằng cho người được thanh toán nghĩa vụ từ di sản của người chết và bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế. Tuy nhiên, trong quá trình so sánh, nhận thấy có những điểm tương đồng, khác biệt và hạn chế trong hệ thống pháp luật của các quốc gia khi đề cập tới vấn đề này. Do đó, Việt Nam có thể học hỏi từ kinh nghiệm của hai quốc gia này để cải thiện và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến NQLDS và thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Việc thiết lập và thực thi các quy định rõ ràng, minh bạch và công bằng trong lĩnh vực này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một môi trường pháp lý ổn định và an toàn cho cộng đồng, đồng thời đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan. Điều này cũng góp phần nâng cao niềm tin và sự ổn định trong xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
DANH MỤC VIẾT TẮT
NQLDS: Người quản lý di sản
BLDS: Bộ luật Dân sự
XUNG ĐỘT LỢI ÍCH
Tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột lợi ích nào trong công bố bài báo.
ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ
Tác giả Nguyễn Thị Phương chịu trách nhiệm toàn bộ các nội dung: Tổng quan nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu; Kết quả nghiên cứu, thảo luận, kết luận.
References
- Nguyễn Ngọc Điện. Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình, Quan hệ tài sản vợ chồng, thừa kế. TPHCM: NXB Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 2022. (6). . ;:. Google Scholar
- Nguyễn Thị Mỹ Hạnh. Chế định tín thác trong pháp luật so sánh và khả năng áp dụng taị Việt Nam. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ- Kinh tế- Luật và quản lý. 2022. . ;:. Google Scholar
- McKinney. Estates, Powers and Trusts Law. [Online]. 2016 [cited 2024 Nov 15]. . ;:. Google Scholar
- Ugo Mattei and Henry Hansmann. Trust Law in the United States. A Basic Study of Its Special Contribution. 1998. . ;:. Google Scholar
- Browne C.Lewis. The law of trusts. California: CALI eLangdell press. 2013. . ;:. Google Scholar
- Ré publique Francaise. Code civil. [Online]. 2024 [cited 2024 Nov 15]. . ;:. Google Scholar
- Quốc hội. Bộ luật Dân sự. 2015. . ;:. Google Scholar
- The Uniform Probate Code (1969) (Last Amended or Revised in 2019), Uniform Law Commission. . ;:. Google Scholar