Abstract
This study determines export competitive advantages for Vietnam's canned tuna products through Balassa's comparative advantage index from 2007 - 2023. Also, it identifies export competitive advantages by using Michael Porter's diamond model. Research shows that Vietnam has a relatively high comparative advantage in the canned tuna export sector. The factors that create Vietnam's competitive advantage are the ample domestic tuna resources; Abundant, experienced, and cheap local labor resources; has the world's leading tuna processing and export capacity with modern product processing technology, meeting market requirements; Exchange rate management policy is beneficial for exports; As a highly open economy, the signing of trade agreements has helped Vietnam's tuna exports enjoy preferential tariffs in many vital markets in recent years. However, Vietnam's tuna industry still faces many difficulties that are typical of a developing country, which is associated with backward fisheries. To maintain export competitive advantages and enhance its position in the world market to improve efficiency and sustainable development, Vietnam needs many reforms to fisheries in general in the coming time.
Giới thiệu
Nói đến vai trò của thương mại, William Petty là người đầu tiên áp dụng các nguyên lý kinh tế học vào thực tiễn, trong đó cho rằng thương mại làm cho mọi người đều có lợi 1 . Ngày nay, các quốc gia có xu hướng mở rộng mạng lưới kết nối với nhau thông qua các hiệp định kinh tế về thương mại hoặc theo các cách khác để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 2 , 3 . Từ đó, các nước có xu hướng giảm bớt các rào cản thương mại, đặc biệt là ở các nền kinh tế mới nổi, tiên tiến. Sự tự do hóa thương mại này là kết quả của hai cách tiếp cận. Thứ nhất là từ các hiệp định đa phương như Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại (GATT), thứ hai là từ việc hình thành các hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương trong khu vực 4 . Sự tự do hóa thương mại gia tăng khiến cho mức độ cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng trở nên gay gắt. Lúc này, lợi thế cạnh tranh càng trở nên quan trọng để các nhà xuất khẩu có thể chiếm được thị phần.
Với lợi thế khi có vùng biển nằm ở khu vực Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPO), nơi có nguồn lợi cá ngừ dồi dào, chiếm 81% sản lượng đánh bắt cá ngừ Thái Bình Dương và 55% sản lượng đánh bắt cá ngừ toàn cầu năm 2018 5 . Số liệu điều tra của Viện Nghiên cứu Thủy sản Biển RIMF năm 2018 cho thấy, ước tính các loài cá nổi lớn chiếm khoảng 1 triệu tấn ở vùng biển Việt Nam, trong đó loài cá ngừ chiếm khoảng 12% tổng sinh khối, là loài có giá trị thương mại nhất ở các vùng biển xa bờ 6 . Ngoài lợi thế về nguồn tài nguyên cá ngừ, Việt Nam còn là quốc gia có nghề cá hình thành và phát triển lâu đời, đội ngũ lao động dồi dào, có kinh nghiệm và giá nhân công rẻ. Việt Nam cũng là quốc gia có năng lực chế biến và xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới. Bên cạnh đó, là một quốc gia có tình hình kinh tế, chính trị, môi trường vĩ ổn định, độ mở kinh tế cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hóa nói chung. Các năm gần đây, Việt Nam luôn nằm trong nhóm 10 nước xuất khẩu cá ngừ lớn nhất thế giới. Trong năm 2022, xuất khẩu cá ngừ của cả nước đạt 1 tỷ USD, chiếm 9,091% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản, trong đó xuất khẩu cá ngừ đóng hộp đạt 309505 nghìn USD. Tuy nhiên sang năm 2023, xuất khẩu các mặt hàng cá ngừ của của cả nước bị giảm 17% so với năm 2022, trong đó xuất khẩu cá ngừ đóng hộp vẫn tăng 6,377%. Ngoài đóng góp vào GDP, ngành công nghiệp cá ngừ của nước ta còn góp phần giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động nông thôn và phát triển kinh tế khu vực nhờ vào xuất khẩu 7 .
Mặc dù có những lợi thế nhất định trong lĩnh vực xuất khẩu cá ngừ nói riêng và xuất khẩu thủy sản nói chung. Tuy nhiên, nghề cá của Việt Nam còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và còn biểu hiện nhiều điểm yếu kém. Trong các năm gần đây, sản lượng khai thác hàng năm đã vượt sản lượng khai thác tối ưu, dẫn đến cạn kiệt nguồn lợi, năng suất khai thác giảm, cơ sở hạ tầng yếu kém, chất lượng sản phẩm khai thác bị giảm đáng kể do công nghệ bảo quản kém, lao động nghề cá có trình độ thấp 6 , 8 . Hàng năm tình trạng khai thác cá trái phép vẫn diễn ra, dẫn đến bị EC cảnh báo thẻ vàng do vi phạm khai thác IUU từ năm 2017. Trong lĩnh vực xuất khẩu, giá trị cũng như thị trường biến động không ổn định, kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng các nguồn lực 8 , 9 . Ở các thị trường xuất khẩu, mức độ cạnh tranh luôn rất cao với hơn 100 quốc gia tham gia xuất khẩu, nhất là ở các thị trường xuất khẩu quan trọng như Mỹ, EU, Canada, Nhật Bản. Các thị trường nhập khẩu ngày càng có nhiều yêu cầu khắt khe hơn về sản phẩm nhập khẩu, trong khi các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Trung Quốc, Ecuador, Tây Ban Nha, Hà Lan,…là những nước xuất khẩu cá ngừ có quy mô lớn hơn rất nhiều so với Việt Nam. Muốn tồn tại và phát triển được trong bối cảnh này, Việt Nam cần phải tạo ra, duy trì và phát huy được các lợi thế cạnh tranh.
Trong nghiên cứu này, tác giả đánh giá lợi thế cạnh tranh xuất khẩu cá ngừ đóng hộp của Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2023 qua chỉ số lợi thế so sánh của Balassa và chỉ số lợi thế so sánh động của Edwards & Schoer, đồng thời xác định các lợi thế cạnh tranh bằng việc phân tích mô hình kim cương của Michael Porter đối với mặt hàng cá ngừ đóng hộp trên thị trường thế giới. Cuối cùng, trên cơ sở của kết quả nghiên cứu, một số hàm ý chính sách được đề xuất để duy trì các lợi thế cạnh tranh xuất khẩu cho Việt Nam, hướng đến mục tiêu xây dựng nghề cá có trách nhiệm, phát triển bền vững và hiệu quả.
Lý thuyết và tổng quan nghiên cứu
Trong các nghiên cứu về năng lực cạnh tranh xuất khẩu, việc sử dụng chỉ số lợi thế so sánh biểu hiện (RCA) đề xuất bởi Balassa để đánh giá về mức độ tập trung chuyên môn hóa trong việc xuất khẩu hàng hóa cụ thể, được tính toán dựa trên giá trị xuất khẩu là một phương pháp được sử dụng phổ biến 10 . Năm 2014, Eleni Kaimakoudia và các cộng sự dùng chỉ số RCA để đánh giá về lợi thế so sánh của các sản phẩm thủy sản xuất khẩu quan trọng của Balkan và các nước Đông Âu. Kết quả nghiên cứu cho thấy tất cả các quốc gia riêng lẻ đều bộc lộ lợi thế cạnh tranh vì có chỉ số RCA cao. Tuy nhiên chỉ số RCA của một số quốc gia biến động nhiều như Bulgaria, Cyprus và Slovenia bởi những hạn chế về phía nguồn cung do điều kiện cung cấp cụ thể đối với các sản phẩm thủy sản tương đối không ổn định. Năm 2015, Suhaeli Fahmi và cộng sự cũng dùng chỉ số lợi thế so sánh RCA để đánh giá về khả năng cạnh xuất khẩu cua của Indonesia trên thị trường Mỹ, đồng thời chỉ số này cũng được tính cho các đối thủ cạnh tranh, trong đó có Việt Nam để so sánh với Indonesia. Kết quả cho thấy hầu hết các nước xuất khẩu chính đều ghi nhận chỉ số RCA > 1 cho thấy khả năng cạnh tranh mạnh mẽ, ngoại trừ Indonesia và Trung Quốc với cua đông lạnh, Mexico với cua chưa đông lạnh và Canada với cua chế biến/bảo quản. Đối với Indonesia, cua chưa đông lạnh (HS 030624) và cua chế biến/bảo quản (HS 160510) cho thấy khả năng cạnh tranh mạnh mẽ tại thị trường Mỹ. Hơn nữa, cua chế biến/bảo quản (HS 160510) là mặt hàng cạnh tranh nhất tại thị trường này. Ngược lại, cua đông lạnh có sức cạnh tranh yếu. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn chỉ ra rằng mặt hàng cua của Indonesia bị từ chối nhập khẩu hàng năm, làm giảm sức cạnh tranh chủ yếu do hàm lượng chất chloramphenicol cao. Do đó để nâng cao sức cạnh tranh, việc bị từ chối nhập khẩu phải được các bên liên quan coi trọng nhất. Còn nghiên cứu của Lugo-Arias và cộng sự sử dụng chỉ số lợi thế so sánh đối xứng (DRCA), được tính toán dựa trên chỉ số lợi thế so sánh biểu hiện để xác định vị thế cạnh tranh xuất khẩu dầu cọ của 30 quốc gia. Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 9 quốc gia mới nổi có lợi thế so sánh về xuất khẩu từ năm 2011 đến năm 2019, bao gồm Indonesia, Malaysia, Honduras, Togo, Guatemala, Uganda, Ecuador, Costa Rica và Colombia. Các quốc gia này được hưởng lợi từ nguồn lao động và nguyên liệu dồi dào, giúp họ tập trung một phần đáng kể năng lực sản xuất vào các hoạt động kinh tế định hướng xuất khẩu, đặc biệt là hàng hóa trung gian số lượng lớn sử dụng nhiều lao động và tiết kiệm chi phí 11 . Trong số các quốc gia có lợi thế so sánh cao, Indonesia, Malaysia và Honduras nổi lên là ba quốc gia dẫn đầu có lợi thế cạnh tranh lớn nhất, duy trì vị trí của mình trong suốt thời gian phân tích. Ngược lại, các quốc gia khác có chỉ số cạnh tranh quốc tế thấp do nhiều quốc gia trong số này là những quốc gia phát triển và chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng thâm dụng vốn, trong khi dầu cọ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong các hoạt động kinh tế của họ.
Ngoài các nghiên cứu trên, rất nhiều nghiên cứu khác cũng dùng chỉ số lợi thế so sánh của Balassa để đánh giá khả năng cạnh tranh, qua đó xác định các lợi thế cạnh tranh 12 , 13 , 14 , 15 , 16 . Tuy nhiên, việc xác định các lợi thế cạnh tranh dựa trên giá trị cũng như sự biến động của chỉ tiêu RCA khó có thể xem xét một cách đầy đủ. Do đó, để xác định các lợi thế cạnh tranh xuất khẩu, mô hình kim cương của Michael là hướng tiếp cận được nhiều nghiên cứu sử dụng. Mô hình này được xây dựng bởi Michael Porter để giải thích về các yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh của quốc gia 17 . Theo Porter, có 4 nhóm yếu tố chính góp phần tạo nên lợi thế cạnh tranh của một quốc gia, được trình bày trong một mô hình 4 cạnh, gọi là mô hình kim cương. Ngoài ra, còn có thêm hai nhóm yếu tố cũng góp phần tạo nên lợi thế cạnh tranh, bao gồm nhóm các yếu tố bất thường như các phát minh khoa học công nghệ, đột biến chi phí đầu vào như cú sốc tiền tệ, thị trường tài chính tiền tệ, tăng cầu đột biến, các sự việc bất khả kháng như đảo chính, chiến tranh, dịch bệnh,.. nói chung là các thách thức hay cơ hội từ bên ngoài; và nhóm yếu tố thuộc về vai trò của Chính phủ trong việc tác động lên các yếu tố lợi thế cạnh tranh quốc gia. Như vậy bằng việc sử dụng mô hình kim cương, các lợi thế cạnh tranh có thể được xem xét và phân tích trên nhiều phương diện, do đó có thể xác định một cách đầy đủ hơn. Do đó đến nay, mô hình này được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu để xác định các lợi thế cạnh tranh của quốc gia xuất khẩu.
Phương pháp nghiên cứu
Đánh giá lợi thế cạnh tranh và xác định các lợi thế cạnh tranh xuất khẩu
Trong nghiên cứu này, lợi thế cạnh tranh xuất khẩu được tác giả đánh giá qua chỉ số lợi thế so sánh (RCA) của Balassa và các lợi thế cạnh tranh xuất khẩu được xác định thông qua mô hình kim cương của Michael Porter, cụ thể như sau:
Lợi thế so sánh (RCA): Đây là chỉ tiêu được đề xuất bởi Balassa 10 , dùng để phản ánh về mức độ chuyên môn hóa của các quốc gia trong việc sản xuất các mặt hàng cụ thể cũng như năng lực cạnh tranh trên thị trường, cho biết mức độ tập trung mà một ngành sản xuất có được so với các ngành sản xuất khác của một nền kinh tế. Do đó, chỉ số này thể hiện được một bức tranh rõ ràng về sự chuyên môn hóa của các quốc gia trong việc sản xuất các mặt hàng cụ thể 18 . Theo đó, chỉ số này được xác định như sau:
Trong đó: X ij là giá trị xuất khẩu mặt hàng i của quốc gia j.
X j là giá trị xuất khẩu tất cả các mặt hàng của quốc gia j.
X wi là giá trị xuất khẩu mặt hàng i của thế giới.
X w là tổng giá trị xuất khẩu tất cả các mặt hàng của thế giới.
Chỉ số RCA >1 cho thấy ngành xuất khẩu của một quốc gia cụ thể có được lợi thế so sánh cao hơn so với bình quân chung của thế giới, cũng là có năng lực cạnh tranh cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh nói chung 19 .
Để thấy rõ về sự thay đổi trong lợi thế so sánh của Việt Nam và các đối thủ cạnh tranh trước sự biến động của các nguồn lực sản xuất bên trong cũng như các yếu tố kinh tế bên ngoài, tác giả sử dụng chỉ số lợi thế so sánh động (DRCA). Chỉ số này được xác định theo 20 như sau:
Trong đó: X j,i là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của quốc gia i; X j,w là tổng kim ngạch xuất khẩu tất cả các hàng hóa của quốc gia i. Phần đầu của (2) phản ánh sự thay đổi trong thị phần thương mại hàng hóa j ở quốc gia i, phần sau phản ánh sự thay đổi trong tổng thị phần thương mại của quốc gia i. Nếu DRCA > 0, cho thấy quốc gia có lợi thế so sánh vượt trội đối với hàng hóa j, và ngược lại.
Tiếp đó, mô hình kim cương dùng để xác định các lợi thế cạnh tranh xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam, được xây dựng như ở Figure 1 .
Figure 1 . Phân tích lợi thế cạnh tranh xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam qua mô hình kim cương
Dữ liệu và nguồn thu thập dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu : Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian về giá trị xuất khẩu cá ngừ đóng hộp và giá trị xuất khẩu các mặt hàng khác của Việt Nam và các nước xuất khẩu cá ngừ lớn nhất trên thế giới để tính toán chỉ số lợi thế so sánh (RCA) và chỉ số lợi thế so sánh động (DRCA) trong giai đoạn 2007 – 2023. Đây là giai đoạn xuất khẩu cá ngừ đóng hộp của Việt Nam có sự tăng trưởng mạnh nhưng cũng có nhiều biến động do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu 2008, tình hình chiến sự thế giới, đại dịch Covid 19 và các thay đổi của nghề cá cũng như tình hình kinh tế trong nước. Thời gian nghiên cứu được chọn nhằm mục đích xác định xem các lợi thế cạnh tranh xuất khẩu cá ngừ đóng hộp của Việt Nam thay đổi như thế nào trong giai đoạn nền kinh tế trong nước cũng như thế giới có nhiều biến động.
Nguồn thu thập dữ liệu : Dữ liệu về kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng của Viêt Nam và các đối thủ cạnh tranh được thu thập từ Trung tâm thương mại quốc tế. Các dữ liệu về sản lượng cá ngừ khai thác qua các năm, trữ lượng nguồn lợi cá ngừ của Việt Nam, thông tin về nghề cá của Việt Nam được thu thập từ Vụ khai thác thủy sản, Viện nghiên cứu thủy sản, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản, Hiệp hội cá ngừ của Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu và hàm ý chính sách
Kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu
Một số hàm ý chính sách duy trì lợi thế cạnh tranh bền vững cho Việt Nam
Phân tích về các lợi thế cạnh tranh xuất khẩu cho mặt hàng cá ngừ đóng hộp trong thời gian qua cho thấy, để duy trì các lợi thế cạnh tranh bền vững trong thời gian tới, Việt Nam cần thực hiện một số chính sách sau:
Thứ nhất, thực hiện chính sách khai thác có trách nhiệm, bền vững. Có thể nói, lợi thế lớn nhất đối với ngành xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam là có nguồn lợi cá ngừ trong nước tương đối lớn để khai thác phục vụ cho chế biến và xuất khẩu. Tuy nhiên, hiện nay nguồn lợi cá ngừ đã bị khai thác quá mức tối ưu. Để duy trì lợi thế cạnh tranh bền vững, trong thời gian tới cần giảm nỗ lực đánh bắt bằng hạn ngạch khai thác nghiêm ngặt. Ngoài ra, các giải pháp khác cần được phối hợp thực hiện để bảo vệ nguồn lợi cá ngừ, đảm bảo phát triển bền vững như khai thác có chọn lọc, quy định mùa vụ, khu vực khai thác, kích thước cá được phép khai thác cụ thể và phù hợp cho từng loại cá để không tận diệt nguồn lợi.
Thứ hai, nâng cao chất lượng cá ngừ sau khai thác: Hiện nay, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá ngừ đã sử dụng công nghệ chế biến tiên tiến, đảm bảo đáp ứng yêu cầu của nhiều phân khúc thị trường, kể cả các thị trường có nhiều yêu cầu khắt khe như Mỹ, EU, Nhật Bản. Tuy nhiên so với các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Trung Quốc, đặc biệt là Italia, Hà Lan, Tây Ban Nha, cá ngừ xuất khẩu của Việt Nam chưa được đánh giá cao về chất lượng, trong đó nguyên nhân chủ yếu nằm ở khâu khai thác. Hiện nay, công nghệ khai thác, bảo quản cá ngừ trên tàu của Việt Nam chủ yếu theo phương pháp truyền thống, dẫn đến chất lượng cá ngừ khi cập cảng bị giảm đáng kể. Tỷ lệ cá nguyên liệu đủ điều kiện để chế biến, xuất khẩu so với tổng sản lượng khai thác còn thấp. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cá ngừ xuất khẩu của Việt Nam có giá bán khá thấp so với các đối thủ cạnh tranh, nguyên nhân là do chất lượng sản phẩm chưa được đánh giá cao. Do đó nâng cao chất lượng sản phẩm là vấn đề cần quan tâm lớn nhất hiện nay để tăng lợi thế cạnh tranh xuất khẩu cá ngừ cho Việt Nam. Để làm được điều này, kỹ thuật, công nghệ khai thác và bảo quản cá sau thu hoạch phải được nâng cấp, đồng thời có thể bố trí các đội tàu dịch vụ thu gom cá từ các tàu khai thác vận chuyển về bờ sớm nhất. Đây là giải pháp mà các nước như Indonesia, Philipines đã áp dụng để giữ chất lượng cá sau thu hoạch. Giải pháp này cần được thực hiện đồng thời với việc hiện đại hóa đội tàu, tăng cường liên kết, hợp tác giữa các đội tàu khai thác, tổ chức sản xuất theo quy mô lớn, đồng thời lao động phải được nâng cao trình độ để có thể dễ dàng tiếp cận công nghệ hiện đại trong khai thác và bảo quản cá ngừ.
Thứ ba, ổn định nguồn cung nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu. Hiện nay, khó khăn của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá ngừ là tình trạng thiếu nguyên liệu chế biến. Việc duy trì nguồn cung sản phẩm ổn định, đáp ứng liên tục các đơn hàng cũng là cách để duy trì lợi thế cạnh tranh trên thị trường, ổn định quy mô xuất khẩu. Bên cạnh nâng cao chất lượng cá sau khai thác để tăng tỷ lệ cá đủ tiêu chuẩn cho chế biến và xuất khẩu, Việt Nam cần tiếp tục hợp tác với các quốc gia khác như Indonesia, Philipines để khai thác cá ngừ để mua giấy phép khai thác cá, bổ sung nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Trong khi nguồn lợi cá ngừ trong nước đã có dấu hiệu cạn kiệt, việc giảm sản lượng khai thác là cần thiết, thay vào đó, các doanh nghiệp cần mở rộng mạng lưới kết nối với các nguồn cung ứng cá ngừ toàn cầu để nhập khẩu cá ngừ đảm bảo chất lượng với giá cả phù hợp. Đây là giải pháp mà các nước như Thái Lan, Nhật Bản đã thực hiện thành công mà Việt Nam cũng cần áp dụng.
Thứ tư, tiết kiệm chi phí, duy trì lợi thế chi phí thấp. Việc bố trí sản xuất theo quy mô nhỏ lẻ, hoạt động độc lập trong lĩnh vực khai thác, chế biến cá ngừ, các ngư dân, doanh nghiệp chế biến đa phần sử dụng nguồn cung yếu tố đầu vào từ các kênh trung gian như hiện nay khiến cho chi phí sản xuất cao, kém hiệu quả về mặt kinh tế. Để tiết kiệm chi phí, từ ngư dân đến các doanh nghiệp chế biến nên thực hiện sản xuất theo chuỗi để có sự hợp tác, hỗ trợ nhau, tổ chức sản xuất theo quy mô lớn, hạn chế sử dụng yếu tố đầu vào qua các kênh trung gian. Trong lĩnh vực chế biến và xuất khẩu, đa dạng hóa sản phẩm là một giải pháp cần được thực hiện để tối đa công suất nhà máy, tiết kiệm các chi phí cố định, đảm bảo ổn định việc làm và thu nhập cho lao động. Bên cạnh chế biến các sản phẩm thủy sản, các doanh nghiệp có thể kết hợp chế biến các loại thực phẩm khác để duy trì sản xuất liên tục. Đây là mô hình sản xuất mà các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá ngừ đóng hộp của Thái Lan đã thực hiện để nâng cao hiệu quả kinh tế mà Việt Nam cũng nên áp dụng.
Thứ năm, tăng uy tín, thương hiệu cá ngừ Việt trên thị trường quốc tế. Đối với vấn đề này, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tốt các tiêu chuẩn quy định của thị trường nhập khẩu là cần thiết. Ngoài ra, các nỗ lực để gỡ thẻ vàng của EC, xây dựng nghề cá hiện đại, có trách nhiệm là việc làm cấp thiết. Các ngành hỗ trợ liên quan như xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, tăng cường hợp tác quốc tế trong nghề cá phải được đầu tư phát triển. Bên cạnh việc xây dựng các chính sách đúng đắn, thì chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm trong nghề cá phải được kiểm soát chặt chẽ, đủ nghiêm khắc, đảm bảo các bên liên quan đều phải tuân thủ nghiêm ngặt đối với các quy định luật pháp nghề cá trong nước cũng như quốc tế.
Thứ sáu, nghiên cứu phát triển thị trường, phát triển sản phẩm, tận dụng tối đa lợi thế từ các FTA thương mại đã kí kết. Hiện nay, hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam còn yếu do thiếu nguồn lực tài chính và con người, khiến cho công tác khảo sát thị trường, xây dựng mở rộng các kênh phân phối, hoạt động tiếp thị sản phẩm,…gặp nhiều khó khăn. Trong thời gian qua, các hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam thường tập trung vào việc duy trì, tìm kiếm và mở rộng thị trường để bán những hàng hóa mà mình có, chưa gắn liền với hoạt động phát triển sản phẩm để có thể bán những sản phẩm hàng hóa mà thị trường có nhu cầu. Mặc dù Việt Nam đã kí kết nhiều hiệp định FTA thương mại song phương và đa phương, tuy nhiên đến nay chúng ta chưa tận dụng được đáng kể các cơ hội từ FTA để tăng xuất khẩu cá ngừ. Trong thời gian tới, việc nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường là cần thiết để có thể tăng quy mô thị trường và giá trị xuất khẩu, nhất là ở thị trường các nước thuộc khối EU và các nước thành viên của hiệp định CPTPP để tận dụng lợi thế về thuế quan ưu đãi.
Kết luận
Là một trong 10 nhà xuất khẩu cá ngừ lớn nhất thế giới và có thị phần xuất khẩu đang tăng dần, cho thấy Việt Nam là quốc gia có thế mạnh trong lĩnh vực khai thác, chế biến và xuất khẩu đối với mặt hàng này. Hiện nay, ngành công nghiệp cá ngừ của Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển, điển hình như có nguồn lợi cá ngừ khai thác nội địa hàng năm lớn, nguồn lao động bản địa dồi dào, có kinh nghiệm, giá nhân công rẻ, công nghệ kỹ thuật chế biến hiện đại, đáp ứng tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm cho các thị trường, nền kinh tế có độ mở cao, việc kí kết các hiệp định thương mại mang lại cơ hội được giảm thuế cho cá ngừ của Việt Nam ở nhiều thị trường quan trọng, các chính sách quản lý thủy sản ngày càng được quan tâm và có nhiều hướng đi phù hợp để hiện đại hóa nghề cá và hướng đến phát triển bền vững, môi trường vĩ mô, môi trường chính trị ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu,…Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn nhiều thách thức, khó khăn, điển hình như tình trạng cạn kiệt nguồn lợi, thiếu nguyên liệu đảm bảo tiêu chuẩn cho chế biến và xuất khẩu, trong khi quản lý nghề cá vẫn còn lỏng lẻo, chưa thể hiện sự quyết tâm cao trong vấn đề bảo vệ nguồn lợi thủy sản, việc bị cảnh báo thẻ vàng gây nhiều bất lợi cho Việt Nam trong việc xuất khẩu hải sản do phát sinh thêm chi phí và làm giảm uy tín thương hiệu sản phẩm cá ngừ Việt Nam trên thị trường. Trong khi đó mức độ cạnh tranh trên thị trường cũng như các yêu cầu về sản phẩm nhập khẩu từ các thị trường ngày càng cao,…Để duy trì được các lợi thế cạnh tranh bền vững, nghề cá của Việt Nam cần có những cải tổ nhất định. Về lâu dài, hiện đại hóa nghề cá và phát triển bền vững là mục tiêu mà nghề cá nước ta cần hướng đến.
Hạn chế của nghiên cứu và định hướng nghiên cứu tiếp theo
Bằng việc sử dụng kết hợp chỉ số lợi thế so sánh của Balassa, chỉ số lợi thế so sánh động của Edwards & Schoer và mô hình kim cương của Porter, đồng thời có sự so sánh với các đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường, nghiên cứu này đã đánh giá được lợi thế cạnh tranh và mức độ ổn định của các lợi thế này, đồng thời phân tích được các khía cạnh của năng lực cạnh tranh trên nhiều phương diện, do đó chỉ ra được khá đầy đủ về các lợi thế cạnh tranh xuất khẩu đối với mặt hàng cá ngừ đóng hộp của Việt Nam. Tuy nhiên, việc xác định các lợi thế cạnh tranh qua phân tích định tính trên các khía cạnh của mô hình kim cương chưa cho thấy được mức độ đóng góp hay tầm quan trọng của từng yếu tố như thế nào đối với lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra, việc đánh giá lợi thế cạnh tranh dựa trên chỉ số lợi thế so sánh cũng chưa đánh giá được đầy đủ về các khía cạnh khác nhau của lợi thế cạnh tranh. Do đó, tác giả cũng khuyến nghị các nghiên cứu khác tiếp tục thực hiện các nghiên cứu về chủ đề này, trong đó khuyến khích sử dụng nhiều công cụ hơn để đánh giá lợi thế so sánh, chẳng hạn như dựa trên khía cạnh chi phí sản xuất, giá xuất khẩu, quy mô ngành xuất khẩu,…đồng thời có sự so sánh với các đối thủ cạnh tranh để có thể cho thấy rõ tương quan về các lợi thế cạnh tranh, từ đó chỉ ra vị thế của mỗi quốc gia trên thị trường. Đối với việc xác định các lợi thế cạnh tranh, có thể kết hợp các phương pháp nghiên cứu định lượng để chỉ ra và lượng hóa được mức độ quan trọng của từng yếu tố, từ đó có cơ sở vững chắc hơn cho việc đề xuất các hàm ý chính sách nhằm duy trì và phát huy các lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là các lợi thế cạnh tranh có đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao hiệu quả kinh tế.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
EC: European Community: Cộng đồng Châu Âu
EU: European Union: Liên minh Châu Âu
CPTPP: Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
EVFTA: European-Vietnam Free Trade Agreement: Hiệp định thương mại tự do Liên minh Châu Âu -Việt Nam
GDP: Gross Domestic Product: Tổng sản phẩm trong nước
IUU: Illegal, unreported and unregulated fishing: Khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định
XUNG ĐỘT LỢI ÍCH
Tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột lợi ích nào trong bài báo này.
ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ
Bài báo này là kết quả nghiên cứu độc lập của tác giả Lê Thị Xoan, không có sự đóng góp của đồng tác giả nào khác.
References
- Pressman D. 50 nhà kinh tế tiêu biểu. NXB Lao động; 2003. . ;:. Google Scholar
- Anderson JL, Fong AF, Garcia GT, Chu CJ. Aquaculture: Its role in the future of food. In: World Agricultural Resources and Food Security. 2017. p. 159–73. . ;:. Google Scholar
- Chaudhary SK, Lamichhane XL, Kharel KMK. The factors affecting Nepal’s trade: gravity model analysis. Eur Acad Res. 2018;5(12):6766–82. . ;:. Google Scholar
- Carbaugh RJ. Is international trade a substitute for migration? Glob Econ J. 2007;7(3). . ;:. Google Scholar
- Williams P, Campbell RC, Tuan RT. Overview of Tuna Fisheries in the WCPO, Including Economic Conditions—2018. In: Proceedings of the 15th Regular Session of the Scientific Committee, Pohnpei, Micronesia. 2019. . ;:. Google Scholar
- Nguyen TV, Le SM, Chu LQ, Pham VH. Productivity, technical efficiency, and technological change in Vietnamese oceanic tuna fisheries. Fish Res. 2022;248:106202. . ;:. Google Scholar
- Nguyen KAT, Marsden JCM. Balancing interests of actors in the ocean tuna value chain of Khanh Hoa province, Vietnam. Mar Policy. 2018;98:11–22. . ;:. Google Scholar
- Nga NH, Tran XLT. The factors affecting Vietnam’s canned tuna exports. Cogent Econ Financ. 2024;12(1):2290784. . ;:. Google Scholar
- Nguyen TV, Le SM, Chu LQ, Pham VH. Productivity, technical efficiency, and technological change in Vietnamese oceanic tuna fisheries. Fish Res. 2022;248:106202. . ;:. Google Scholar
- Balassa B. Tariff protection in industrial countries: an evaluation. J Polit Econ. 1965;73(6):573–94. . ;:. Google Scholar
- Lugo-Arias E, Jimenez LA, Vargas VSB, del Pilar MPMA, Benitez GIB, Berrocal HCB, Torres HDT. Determinants of the competitiveness of world palm oil exports: A cointegration analysis. Translate Corp Rev. 2024;16(3):200063. . ;:. Google Scholar
- Malau LRE, Ulya NA, Martin E, Anjani R, Premono BT, Yulni T. Competitiveness and Flow of Indonesian Paper Trade in The Global Market. J Ekon Pembang Kaji Masal Ekon dan Pembang. 2022;23(1):1–18. . ;:. Google Scholar
- Ningsih EA, Diniati DL, Haris SH, Nugraha BN. The Effectiveness of Safeguard Measures in Elevating the Competitiveness of Domestic Industry: Case Study of Indonesia’s Textile Industry. Procedia Comput Sci. 2024;234:699–709. . ;:. Google Scholar
- Kang H, Zhao YZ, Zheng ZZ. The competitiveness of China’s seaweed products in the international market from 2002 to 2017. Aquac Fish. 2023;8(5):579–86. . ;:. Google Scholar
- Podoba ZS, Gvozdetska GVA, Omelchenko OAA. Japan’s export specialization in 2000–2020. Asia Glob Econ. 2021;1(2):100014. . ;:. Google Scholar
- Kaimakoudi E, Polymeros PK, Batzios BC. Investigating export performance and competitiveness of Balkan and eastern European fisheries sector. Procedia Econ Financ. 2014;9:219–30. . ;:. Google Scholar
- Porter ME. The competitive advantage of nations. Harv Bus Rev. 1990;73–91. . ;:. Google Scholar
- Paul J, Das R. Three decades of export competitiveness literature: systematic review, synthesis, and future research agenda. Int Mark Rev. 2021;38(5):1082–1111. . ;:. Google Scholar
- Balassa B. Trade liberalization and revealed comparative advantage. Manchester Sch. 1965;33(2):99–123. . ;:. Google Scholar
- Edwards L, van Seventer S. The Structure and Competitiveness and Industrial Policy Strategy. Annu Forum Muldersdrift. 2001;3. . ;:. Google Scholar
- Hinloopen J, van Marrewijk C. On the empirical distribution of the Balassa index. Weltwirtsch Arch. 2001;137(1):1–35. . ;:. Google Scholar
- Le Thi X, Vu LUVT, Nguyen MHN. Assessment of Competitiveness for Vietnam’s Frozen Yellowfin Tuna Export Industry. Int J Sci Adv. 2023;4(4):628–34. . ;:. Google Scholar
- Nguyen TV, Tran TTQ. Management of multispecies resources and multi-gear fisheries: The case of oceanic tuna fisheries in Vietnam. Reg Stud Mar Sci. 2023;63:103021. . ;:. Google Scholar
- Tri NG, Vo TN. Studying the Impact of Factors Affecting Competitiveness in Seafood Export Enterprises: A case in the Mekong Delta, Vietnam. Cent Eur Manag J. 2022;30(4):428–37. . ;:. Google Scholar
- Obeng CK, Boadu MT, Ewusie EA. Deep preferential trade agreements and export efficiency in Ghana: Do institutions matter? Res Glob. 2023;6. . ;:. Google Scholar
- Masood S, Khurshid N, Haider M, Khurshid J, Khokhar AM. Trade potential of Pakistan with the South Asian Countries: A gravity model approach. Asia Pac Manag Rev. 2023;28(1):45–51. . ;:. Google Scholar